|  Đăng nhập
Select the search type
 
  • Site
  • Web
Search

 

Tiêu đề: PHAN DUY NHÂN, TRÁI TIM NHƯ HẠT GIEO RỒI...
Tác giả: Nguyễn Nhã Tiên


Nhà thơ Phan Duy Nhân tên thật là Phan Chánh Dinh, sinh năm 1941 tại Quảng Trị. Ông còn các bút hiệu khác: Nguyễn Chính, Dương Phù Sao, Thiết Sử. Từng gắn bó với mảnh đất Quảng Nam - Đà Nẵng suốt thời kỳ hoạt động trong các phong trào sinh viên học sinh đô thị miền Nam với tư cách là người lãnh đạo. Sau năm 1975, ông công tác ở Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh QN-ĐN, rồi được điều về Trung ương làm Quyền Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ cho đến ngày về hưu. Thơ Phan Duy Nhân từ những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ trước thường xuyên đăng trên các tạp chí: Bách Khoa, Văn học (Sài Gòn). Ông cũng từng là nhân vật huyền thoại trong tiểu thuyết Học phí trả bằng máu của nhà văn Nguyễn Khắc Phục. Nhưng có lẽ nhớ tới ông, người ta nhớ đến một Phan Duy Nhân thi sĩ trước hết!

Mượn câu thơ của nhà thơ Phan Duy Nhân viết đề từ cho chính bài thơ Không đề của anh: Trái tim như hạt gieo rồi, để tôi lại viết về thi sĩ. Tôi cũng không rõ lắm bài thơ Không đề anh Phan Duy Nhân viết ra vào khoảng thời gian nào nữa, nhưng có lẽ, chỉ cần một câu thơ như thế (thực ra thì Phan Duy Nhân đề từ cho bài thơ này bằng hai câu lục bát: Trái tim như hạt gieo rồi/ Mùa xuân về chậm còn ai nẩy mầm), thì đấy có thể là lời đề từ cho toàn bộ cuộc đời thơ Phan Duy Nhân, nói khác hơn, cũng có thể là từ buổi mẹ khai sinh ra trên cuộc đời này đứa con thuộc giống “loài thi sĩ”. Vâng, trái tim như hạt gieo rồi!

“Loài thi sĩ” là tôi mượn ý của thi sĩ tài hoa mệnh bạc Hàn Mặc Tử, như trong một lá thư ông viết gửi cho người bạn thân của mình là Hoàng Trọng Miên (bài Quan niệm về thơ): “...Đức Chúa trời tạo ra trăng, hoa, nhạc, hương là để cho người đời hưởng thụ, nhưng người đời u mê phần nhiều không biết tận hưởng một cách say sưa, và nhân đấy chiêm nghiệm lẽ màu nhiệm... Vì thế trừ hai loài trọng vọng là “thiên thần” và “loài người”, Đức Chúa trời phải cho ra đời một loài thứ ba nữa: “Loài thi sĩ”. Loài này là những bông hoa rất quý và hiếm, sinh ra đời với một sứ mệnh rất thiêng liêng: phải biết tận hưởng những công trình châu báu..., và trút vào linh hồn người ta những nguồn khoái lạc đê mê, nhưng rất thơm tho tinh sạch”.

Lược trích có vẻ dông dài lá thư của Hàn thi sĩ là cốt để phần nào gợi mở đến sự huyền nhiệm trong thơ, một thứ huyền nhiệm không nhằm nói đến tính chất tôn giáo, mà có thể xem như tinh thần triết học Marcel, là để soi rọi về tha thể, tha nhân hay nhân vị con người. Mà đã là huyền nhiệm thì không thể định nghĩa. Tôi thường bị ám ảnh bởi sự đúc kết siêu nghiệm của Paul Valéry khi nói về thơ, rằng: “Thượng đế hào phóng đã ban phát cho ta câu thơ đầu, những câu thơ tiếp theo ta phải tự làm lấy”. “Thượng đế” trong ý niệm này có lẽ cũng nhằm nói lên sự huyền nhiệm. “Thượng đế” của Valéry hay “Đức Chúa trời” của Hàn Mặc Tử là ý niệm siêu nhiên nhằm khái quát về cái thế giới huyền nhiệm thăm thẳm, vô cùng, vô tận... Và, có lẽ chỉ may ra “loài thi sĩ” kia, họ là những thiên sứ luôn ẩn chứa trong tâm hồn cái tố chất bẩm sinh bí mật, mới có cái năng lực bí nhiệm để “trút vào linh hồn người ta những nguồn khoái lạc đê mê, nhưng rất thơm tho tinh sạch”.

Trái tim như hạt gieo rồi” của Phan Duy Nhân cũng chính là thứ bí nhiệm trút vào linh hồn người ta những nguồn đê mê ấy. Không phải chỉ là câu thơ đề từ, hoặc có thể là bài thơ Không đề này thôi đâu, mà là bề bộn những mùa màng hoa trái Phan Duy Nhân đã gieo cấy từ hạt giống của trái tim mình. Nhiều bài thơ anh viết vào thời thanh xuân trai trẻ đăng thường xuyên trên tạp chí Bách Khoa (Sài Gòn) vào những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, cho đến bây giờ đã hơn nửa thế kỷ, vậy mà lớp học sinh - sinh viên thời ấy, bao người còn thuộc nằm lòng, hễ mỗi khi nhắc đến Phan Duy Nhân là hầu như người ta nhớ đến thơ anh, nhớ thêm một bút hiệu Dương Phù Sao đa tình, nhớ đến một Phan Duy Nhân thi sĩ hơn bất cứ nhớ điều gì khác về anh: Khi mở lời thư ngỏ ý tìm/ Mùa xuân trên má thẹn êm đềm/ Hai vai anh đã đầy sương khói/ Lòng đã hoang vu, mộng đã chìm/ Anh chỉ còn đây lời rượu ngọt/ Cùng thơ tâm sự mắt du thuyền/ Tương lai thôi hãy mềm như lụa/ Mà gói đời anh trong áo em (Thơ cầu nguyện. Bách Khoa 124).

Thơ ấy quả là rượu ngọt! Một thứ rượu ngọt được chưng cất bởi “thượng đế”, cộng thêm cái năng lực “phu chữ” hào hoa - một phẩm chất trong lao động nghệ thuật của Phan Duy Nhân mà thành. Cũng có thể nói, đây là đặc điểm nghệ thuật thơ Phan Duy Nhân, xuyên suốt nhiều sáng tác của anh trong giai đoạn này, cố nhiên là không phải sáng tác nào cũng đạt được hiệu quả trở thành thứ men say hoan lạc cho người thưởng ngoạn. Nhưng, còn gì hơn thước đo thời gian đã thực sự chứng minh sức sống thơ Phan Duy Nhân trong lòng công chúng, một sức sống đẹp lung linh huyền thoại, mà có khi chính tác giả của nó cũng không ngờ tới. Ví như, một chiều cuối năm nào đó của thời trai trẻ, tôi đoán chừng là vào độ tuổi sinh viên, hay mới ra trường, trong cái tâm thế bồn chồn rời nhà trọ của một lữ khách, Phan Duy Nhân đã viết bài thơ Cuối năm rời nhà trọ: Lòng trống không mà mưa cuối năm/ Tre câm cam chịu nỗi cơ hàn/ Chăn đơn đời ngủ không cần dậy/ Tay vắt ngang mày đợi bóng trăng/ Này lối thầm xưa ngùi kỷ niệm/ Này vuông cửa sổ ngắm chiều rơi/ Mai sương như khói lên đầu ngõ/ Giọt nến đêm dài thêm tủi thôi/ Cau vút thân vời cao chín bậc/ Thầm ru chim phượng ngủ trong lòng/ Bạn bè mộng thấy dăm ba bận/ Ai biết ta nằm đây nữa không?/ Mơ ước xa như người đã khuất/ Cam thua cau mặt lật con bài/ Mưa chiều tượng mỏi im như Phật/ Từng giọt buồn rơi qua kẽ tay/ Trang sách, vuông khăn, vài vạt áo/ Vò lòng cúi mặt bước chân ra/ Chỉ cần mưa ngớt cho đôi chút/ Trời rộng xin đừng gió thổi qua! (Bách Khoa 145).

Bài thơ toát lên một sắc thái cổ điển. Ngôn từ đẹp mà giản dị, nhạc tính mang mác nỗi buồn, tạo ra hiệu quả đằm sâu u hoài giữa thanh âm và ngữ nghĩa, dễ gieo vào lòng con người ta một nỗi cảm hoài xa vắng mênh mông. Một bài thơ ra đời trong một khoảnh khắc như thế, ấy vậy mà nó trở thành bạn đường cho bao nhiêu người yêu thơ, vượt qua chiến tranh cho tới hòa bình dằng dặc đã quá năm mươi năm. Nhưng nào phải ngần ấy đâu, thơ Phan Duy Nhân hình như còn có những tập: Thơ của Hà, Ngậm ngải tìm trầm... dù chưa xuất bản, chỉ đăng rải rác trên các tạp chí, nhưng dấu ấn của một thời thanh xuân đẹp đẽ ấy đã là những cái mốc son thơ in dấu tài hoa của một thi sĩ trên văn đàn miền Nam lúc bấy giờ. Trong những cái mốc son thơ đó không thể không nhắc tới mảng đề tài anh viết về chiến tranh. Cũng như một số các nhà thơ nổi tiếng khác ở miền Nam cùng thời với Phan Duy Nhân như Luân Hoán, Thành Tôn, Hà Nguyên Thạch, Tần Hoài Dạ Vũ..., vào những năm tháng đất nước còn binh lửa, thì nguồn mạch ưu tư thân phận, nỗi đau xứ sở quê hương chia cắt, đạn bom tàn phá từng ngày tan hoang..., tất cả cứa vào trái tim thi sĩ kiểu như anh, đã chảy máu thành thơ: Giây phút ấy tôi cầm tay nỗi chết/ Sau lưng anh phường phố vẫn điêu tàn/ Máu một dòng rơi hờn như giọt đá/ Thơ một lời dội lại tiếng kêu vang (Đường bay của thơ. Bách Khoa 123).

Lớp hoa niên non trẻ của chúng tôi vào thời ấy lớn lên đều ít nhiều có ảnh hưởng đến dòng thơ này. Chưa đủ sức hoặc không thể viết thành thơ thì đọc thơ của các anh vang vang nơi này nơi kia, như bày tỏ một khát vọng, một tình yêu, một nhen nhóm lửa, và có lẽ những niềm say mê đó hầu như từ vô thức mà ra, giống như trẻ con biết vỗ về nỗi buồn đau của mẹ. Trong cái tâm thế ấy thì một bài thơ như thế này của Phan Duy Nhân, bài Thơ cho mẹ và chị dễ trở thành lời kinh cho tất cả “nguyện cầu”: Đầy nước mắt đi trong chiều biển động/ Thân san hô sóng vỗ một đời tròn/ Trông cây tùng gặp bão cũng cong lưng/ Đời kiêu mạn chẳng còn tâm sự với/ Con nhớ lại sắt se lời mẹ dạy/ Những đêm qua ngõ hẹp phố phường sâu/ Đầu gối trên tay nghe đường máu chạy/ Trong tim con ngựa mỏi cũng quay đầu/ Những buổi sáng nằm vùi trên gác trọ/ Những chiều hôm mong đợi chẳng ai về/ Tình thuở trước đắp cao dần nấm mộ/ Trong lòng con cỏ mọc đã vàng hoe...

Tôi vẫn thường hay gắng gỏi tuân thủ theo cái cách mà Milan Kundera đã viết trong “Nghệ thuật tiểu thuyết”, rằng: biết về tác giả sẽ chẳng làm khác đi giá trị tác phẩm (cho dù là thơ hay bất cứ loại hình nghệ thuật nào khác). Nhưng với nhà thơ Phan Duy Nhân thì tôi không thể không biết chút ít gì về anh, nhất là vào cái buổi hoàng hôn tuổi tác của anh. Mà quả thật, cũng chỉ bấy nhiêu thời gian, bởi cuộc đời sóng gió lên ghềnh xuống thác dằng dặc của anh tôi nào có biết gì nhiều ngoài những bài thơ và mấy dòng tiểu sử sơ sài, như người ta từng biết về anh, nào tên thật là Phan Chánh Dinh, cùng với các bút hiệu: Dương Phù Sao, Nguyễn Chính, Thiết Sử, cho đến năm sinh, quê quán, nghề nghiệp...

Nhưng có lẽ vào những tháng ngày Phan Duy Nhân nhẹ tênh rong chơi dưới ngọn Kim Sơn - Ngũ Hành Sơn, hẳn ít người biết tới anh. Nếu như ngày xưa tôi biết về anh là một thi sĩ, thì bây giờ với tôi, buổi anh trở về vẫn nguyên vẹn là một thi sĩ. Câu thơ Trái tim như hạt gieo rồi có chút gì đó như là “nghiệp”, là định mệnh chăng, để mạch thơ của anh ngày xưa: Thân anh một sớm lui về/ Chỉ còn tro bụi tứ bề hỏa thiêu (Bách Khoa 140) hòa vào sắc mây lam ửng lên giữa hoàng hôn bây giờ. Nhưng nào phải cuộc đua với hoàng hôn anh chỉ có thơ không đâu, mà dường như khi cởi bỏ áo mão công danh rồi, về hưu rồi, Phan Duy Nhân cũng chẳng chịu ngồi yên, anh tham gia (cũng có khi là tổ chức) các hoạt động xã hội nơi này, nơi khác. Có lần anh bảo với tôi: “Bà Hà (tức vợ anh) đã sưu tầm tập hợp được gần 600 bài thơ của mình rồi”. Nói thế, nhưng rồi vẫn chưa thấy anh in ấn thành tập hay làm tuyển cho mình. Khổ nỗi bệnh tật triền miên, anh phải ăn uống kiêng cữ, chỉ gạo lức muối mè thường xuyên. Hình như những đồng lương hưu anh để hết cho vợ con ở nhà, nên đường trường, có lúc tiền xăng để chạy xe Honda, tôi hoặc người quen nào đó phải trả cho anh. Cũng có ngày, chán ở chùa chiền hay sao đó, anh ghé vào nhà tôi ở lại. Nhà tôi các cháu đi làm việc thường vắng cả ngày, nên có những buổi trưa tôi đưa anh ra mấy cái quán cóc chỗ siêu thị Bài Thơ để ăn. Những bữa ăn cũng vô cùng đạm bạc, mà anh ăn thì vài lưng chén cơm là cùng. Một lần tôi và anh uống cafe sáng với thầy Huệ Vinh, hôm ấy nhìn màu da anh xanh tái khác thường, tôi nói với anh: Mẹ đã sinh anh ra làm thi sĩ, bây giờ đã qua ghềnh thác sự nghiệp công danh này nọ rồi, anh còn bao sức lực thì cứ dốc vào thơ, may ra còn chút gì, chứ cứ lang thang như thế này, chẳng vào đâu, mà đổ bệnh xuống chẳng ai chăm sóc. Thầy Huệ Vinh cũng góp vào: “Lại còn trong túi, thường chẳng có đồng nào mới là cực”. Nghe tôi và thầy Huệ Vinh nói, anh cười như trẻ thơ chẳng nói lại lời nào.

Chùa Quán Thế Âm nằm dưới chân ngọn Kim Sơn, thầy Huệ Vinh dành riêng cho anh một phòng. Hễ đi về Sài Gòn với vợ con thì thôi, ra lại Đà Nẵng thì cái “thiền thất” bé xíu đấy là một “cõi đi về” của anh. Nhìn anh Phan Duy Nhân mặc bộ nhật bình nâu sòng, lui cui vào ra chùa dưới bóng núi trông cứ như... một thiền sư, có lẽ hình ảnh đó khắc họa vào trí nhớ tôi một chân dung thi sĩ đẹp như bài thơ anh viết: Tràn đầy mà rỗng không/ Biển vô lượng thủy triều/ Đường về tâm bất động/ Tuyệt chiêu là vô chiêu/ Đã thương đời vạn dặm/ Vân du vượt núi đèo/ Thôi hòa lòng với bụi/ Thanh tịnh vầng trăng treo... (Kính tặng Tôn Sư tôi, Đặc san Diệu Âm. Lễ hội Quán Thế Âm, Phật lịch 2557).

Ôi chao, một cuộc đời thi sĩ, thơ thế ấy thì khác nào một sắc mây lam ửng lên giữa chiều, hay cũng có thể gọi đấy là quầng ráng anh thắp lên chạy đua với hoàng hôn tuổi tác!

N.N.T

Quay về
VĂN
NỢ DUYÊN
CÔ GIÁO NHƯ EM
CHUYỆN NHỎ CỦA MỘT THỜI VÀ CỦA MỘT ĐỜI
ĐA ĐOAN DUYÊN NỢ
THƠ
EM NHỚ CHO...
NGÔI NHÀ TRÁI ĐẤT
BỨC TƯỢNG VŨ NỮ
LÀ EM
GIỌT MƯA ĐÊM
CỘT
GIẤC MƠ
MÙA XƯA ĐÂU NỮA?
RU ĐỜI
CÁNH ĐỒNG LÀNG
KHOẢNG CÁCH + NHÀ BỌC KÍNH
VŨNG TÀU + DẤU THIÊNG
THƠ GỬI NGƯỜI MẮT ĐEN + BAY TRÊN CÁNH SÓNG
KÝ TỰ BIỂN + MẮC NỢ
CON ĐÃ VỀ + KHÔNG ĐỀ
PHÍA BIỂN + THẦN DƯỢC
VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI
ĐƯỜNG TỚI THIÊN ĐÀNG
NGHIÊN CỨU-LÝ LUẬN-PHÊ BÌNH
HAI PHƯƠNG DIỆN CON NGƯỜI TỪ HẢI
PHAN DUY NHÂN, TRÁI TIM NHƯ HẠT GIEO RỒI...
VỀ BÀI CÂU KẾT BÀI THƠ TỐNG BIỆT HÀNH
VĂN HỌC-HỌC VĂN
CƠM TRONG TỤC NGỮ VIỆT NAM